Đối trị 10 phiền não.
Phiền não là tâm ô nhiễm (defilement).
Tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ.
Các tâm ô nhiễm này do huân tập từ nhiều đời hiện đang đầy ắp trong tạng thức. Muốn sám hối, muốn tội tiêu, tâm tịnh thảy đều không thì phải tẩy trừ những tâm ô nhiễm này sạch sẽ, không còn trong tạng thức.
Phương pháp sám hối tiêu cực là đọc tụng sám văn.
Lạy Phật cũng tốt nhưng lạy mà không biết vì sao mình lạy, lạy để chuyển hóa tâm ô nhiễm nào trong mỗi cái lạy thì cái lạy chỉ nặng về tập thể dục hoặc giả là thực tập cho có định tâm.
Tốt nhất là khi tâm ô nhiễm nào chớm bật lên, phải hỏi: tại sao? tại sao? Tâm ô nhiễm nào cũng huân tập thành thói quen, thành những thảo chương (program) rồi. Dùng những phép quán chiếu thích nghi, ngay lập tức nhận diện...và ê bạn còn lấp ló hả??? Chào bạn nghe....Bye bye...Người bạn này tự động ra khỏi tạng thức...hoặc là người bạn này chuyển hóa rồi trở về tạng thức với tâm thanh tịnh hơn, với thảo chương mới (program mới)...gọi là hiện hành huân chủng tử.
1) Tham (greedy): Cái gì vừa ý tâm muốn kéo vào, tâm muốn chiếm đoạt.
Gồm có: Tài, sắc danh, thực, thùy.
Sắc, dính dấp đến ái dục, khó doạn diệt nhất.
Đối trị: Quán: vô thường, quán vô ngã, quán, ly dục (khát uống nước biển), quán bố thí (tay phải tập bố thí cho tay trái và ngược lại cho những ai chưa hề bố thí)
2) Sân: Không vừa ý, tâm muốn đập phá, muốn đẩy ra...
Đối trị: Quán từ bi, quán hỷ xả, quán không thù hận,
3) Si: Do vô minh, không biết
Đối trị: Quán nhân duyên, quán nhân quả nghiệp báo.
4) Mạn: vì so sánh mà sinh ra.
Đối trị: Tập không so sánh mình với ai. Mỗi ngày tự quét ngôi am nhỏ, chớ hỏi nhà ai cỏ rác đầy. Complain the outside only makes you unhappy.
5) Nghi: nghi pháp, nghi thầy, nghi mình (không tự tin)
Đối trị: Học, đọc tụng, nghe giảng Pháp....tham vấn....học hỏi...Chớ vì tự cao mà nghe ai nói cũng nghe bằng nửa lỗ tai...Nghe với tâm hằn học, chê bai ngăn che, chận lối nên luôn bị mập mờ...chớp nháy...
6) Sắc kiến, thân kiến: Cho thân này là mình...vơ vào của mình...
Đối trị: Quán ngũ uẩn giai không...vô ngã...
7) Biên kiến: Thấy một bên....chấp thường chấp đoạn...chấp pháp môn mình là ưu việt...Tư mình đóng dấu approve...
Đối trị: Mọi sự việc luôn có hai mặt....tập mở rộng tâm thông cảm
8) Tà Kiến: Nghiêng, sai lệch...chẳng hạn không tin nhân quả mà tin dị đoan...bói toán...xin xăm...cúng sao...
Đối trị: Học giáo lý, đọc tụng kinh điển để hiểu lý chân thật, chánh kiến....kiến tánh...
9) Kiến thủ: Chấp chặt chỉ mình đúng, thiên hạ sai...sinh ra cãi vã, tranh chấp.
Đối trị: Mọi con đường đều đến La mã...Tập lắng nghe nhớ ta có hai tai một miệng...Trên đời chỉ có việc không thích hợp với ý mình chứ không có ý kiến nào hay nhất...kiến hòa đồng tu...
10) Giới cấm thủ: Dính chăt vào các giới cấm sai lầm... chẳng hạn: người không cùng tôn giáo không chơi...chùa này không có giữ ABC gì đó...chùa mình có (nội quy không phải giới)...giới đứng một chân...
Đối trị: Mục đích của giới là không hại mình đồng thời không hại người. Không nghĩ xấu, không nói xấu, không làm xấu...
Vừa khởi tâm ô nhiễm thì sám hối ngay...không chần chờ...Đã hay biết thì phải hành trì, sửa đổi chớ để cơ hội sửa sai trôi qua...tâm ô nhiễm khởi lên là người bạn lành đến nhắc nhở...Nếu tâm này cứ nằm ù lì trong tạng thức thì ta khó có cơ hội hay biết...Ai cũng có vô lương, vô biên chủng tử xấu ác nẳm ngủ trong tạng thức...Chỉ có tâm muốn sám hối thì những chủng tử này mới hiện hình, ló đầu ra cho ta hay biết...Còn ở người đắm chìm trong dục lạc thì chúng cứ tiếp tục nhuộm màu đậm hơn, tiếp tục khắc vào đá sâu hơn...Bám chặt...Ở những người tâm không muốn sám hối, luôn luôn tìm cách biện hộ, che dấu và vì tính cố chấp này càng ngày họ càng trở nên chai lì, họ càng làm những chuyện xấu ác hơn mà vẫn trơ trơ, căm ghét những ai chỉ lỗi của mình...
Tu: là kiểm soát
Phật tử thì nên luôn luôn nhớ đến khổ sanh tử luân hồi và hãy cố gắng linh mẫn, bén nhạy cứu khổ.
7 pháp trừ phiền não:
Kinh trung bộ Phật dạy 7 pháp trừ phiền não (mang tính cách tổng quát, áp dụng tùy hoàn cảnh, trường hợp)
1- tri kiến
2- phòng hộ
3- thọ dụng
4- kham nhẫn
5- tránh né
6- trừ diệt đọan diệt
7 - tu tập
Đại
Tạng Kinh Việt Nam
KINH TRUNG BỘ
Majjhima Nikàya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
2. Kinh Tất cả các lậu hoặc
(Sabbàsava sutta)
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông
Anathapindika (Cấp Cô Độc). Khi ở tại chỗ ấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
"Này các Tỷ-kheo!" --"Bạch Thế Tôn", các Tỷ-kheo ấy vâng
đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói: "Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ giảng cho các Người pháp
môn phòng hộ tất cả lậu hoặc". Hãy nghe và khéo tác ý. Ta sẽ nói".
--"Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Thế Tôn nói như sau:
(Tóm lược)
-- Này các Tỷ-kheo, Ta giảng sự diệt tận các lậu hoặc cho người biết, cho
người thấy, không phải cho người không biết, cho người không thấy. Và này các
Tỷ-kheo, thế nào là sự diệt tận các lậu hoặc cho người biết, cho người thấy: có
như lý tác ý và không như lý tác ý. Này các Tỷ-kheo, do không như lý tác ý, các
lậu hoặc chưa sanh được sanh khởi, và các
lậu hoặc đã sanh được tăng trưởng. Này các Tỷ-kheo, do như lý tác ý, các lậu
hoặc chưa sanh không sanh khởi, và các lậu hoặc đã sanh được trừ diệt. Này các
Tỷ-kheo, có những lậu hoặc phải do tri kiến được đoạn trừ, có những lậu hoặc
phải do phòng hộ được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do thọ dụng được đoạn
trừ, có những lậu hoặc phải do khamnhẫn được đoạn trừ, có những
lậu hoặc phải do tránh né được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do trừ diệt
được đoạn trừ, có những lậu hoặc phải do tu tập được đoạn trừ.
(Các lậu hoặc phải do tri kiến được đoạn trừ)
Này các Tỷ-kheo, và thế nào là các lậu hoặc phải do tri kiến được đoạn
trừ? Này các Tỷ-kheo, ở đây có kẻ phàm phu ít nghe, không được thấy các bậc
Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh,
không được thấy các bậc Chơn nhơn, không thuần thục pháp các bậc Chơn nhơn,
không tu tập pháp các bậc Chơn nhơn, không tuệ tri các pháp cần phải tác ý,
không tuệ tri các pháp không cần phải tác ý; vị này vì không tuệ tri các pháp
cần phải tác ý, vì không tuệ tri các pháp không cần phải tác ý nên tác ý các
pháp không cần phải tác ý và không tác ý các pháp cần phải tác ý.
Này các Tỷ-kheo, và thế nào là các pháp không cần phải tác ý mà vị ấy tác
ý? Này các Tỷ-kheo, nghĩa là các pháp do vị ấy tác ý mà dục lậu chưa sanh được
sanh khởi, hay dục lậu đã sanh được tăng trưởng; hay hữu lậu chưa sanh được
sanh khởi, hay hữu lậu đã sanh được tăng trưởng, hay vô minh lậu chưa sanh được
sanh khởi, hay vô minh lậu đã sanh được tăng trưởng. Những pháp ấy là những
pháp không cần phải tác ý mà vị ấy tác ý. Này các Tỷ-kheo, và thế nào là các
pháp cần phải tác ý mà vị ấy không tác ý? Này các Tỷ-kheo, nghĩa là các pháp do
vị ấy tác ý mà dục lậu chưa sanh không sanh khởi, hay dục lậu đã sanh được trừ
diệt, hay hữu lậu chưa sanh không sanh khởi, hay hữu lậu đã sanh được trừ diệt,
hay vô minh lậu chưa sanh không sanh khởi, hay vô minh lậu đã sanh được trừ
diệt. Những pháp ấy là những pháp cần phải tác ý mà các vị ấy không tác ý. Do
vị ấy tác ý các pháp không nên tác ý, do vị ấy không tác ý các pháp cần phải
tác ý, nên các lậu hoặc chưa sanh được sanh khởi, và các lậu hoặc đã sanh được
tăng trưởng.
Vị ấy không như lý tác ý như sau: "Ta có mặt trong thời quá khứ, hay
ta không có mặt trong thời quá khứ? Ta có mặt trong thời quá khứ như thế nào?
Ta có mặt trong thời quá khứ hình vóc như thế nào? Trước kia ta-là gì và ta đã
có mặt như thế nào trong thời quá khứ? Ta sẽ có mặt trong thời vị lai hay ta sẽ
không có mặt trong thời vị lai? Ta sẽ có mặt trong thời vị lai như thế nào? Ta
sẽ có mặt trong thời vị lai, hình vóc như thế nào? Trước kia ta là gì và ta sẽ
có mặt như thế nào trong thời vị lai?" Hay nay vị ấy có nghi ngờ về mình
trong thời hiện tại: "Ta có mặt hay ta không có mặt? Ta có mặt như thế
nào? Ta có mặt hình vóc như thế nào? Chúng sanh này từ đâu đến? Và rồi nó sẽ đi
đâu?".
Với người không như lý tác ý như vậy, một trong sáu tà kiến này khởi lên:
"Ta có tự ngã", tà kiến này khởi lên với người ấy như thật, như chơn;
"Ta không có tự ngã", tà kiến này khởi lên với người ấy như thật như
chơn; "Do tự mình, ta tưởng tri ta có tự ngã", tà kiến này khởi lên
với người ấy như thật, như chơn; "Do tự mình, ta tưởng tri ta không có tự
ngã", tà kiến này khởi lên với người ấy như thật, như chơn. "Không do
tự mình, ta tưởng tri ta có tự ngã", tà kiến này khởi lên với người ấy như
thật, như chơn; hay tà kiến này khởi lên với người ấy: "Chính tự ngã của ta
nói, cảm giác, hưởng thọ quả báo các nghiệp thiện ác đã làm chỗ này, chỗ kia,
chính tự ngã ấy của ta-là thường trú, thường hằng, hằng tồn, không chuyển biến,
và sẽ vĩnh viễn tồn tại". Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là tà kiến, kiến
trù lâm, kiến hoang vu, kiến hý luận, kiến tranh chấp, kiến kiết phược. Này các
Tỷ-kheo, trói buộc bởi kiến kiết sử, kẻ phàm phu ít nghe không được giải thoát
khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói kẻ ấy không thoát khỏi khổ
đau.
Này các Tỷ-kheo, và vị Thánh đệ tử nghe nhiều, được thấy các bậc Thánh,
thuần thục pháp các bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh; được thấy các bậc
Chơn nhơn, thuần thục pháp các bậc Chơn nhơn, tu tập pháp các bậc Chơn nhơn,
tuệ tri các pháp cần phải tác ý, tuệ tri các pháp không cần phải tác ý. Vị này,
nhờ tuệ tri các pháp cần phải tác ý, nhờ tuệ tri các pháp không cần phải tác ý,
nên không tác ý các pháp không cần phải tác ý và tác ý các pháp cần phải tác ý.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các pháp không cần phải tác ý và vị này
không tác ý? Này các Tỷ-kheo, những pháp nào do tác ý mà dục lậu chưa sanh được
sanh khởi, hay dục lậu đã sanh được tăng trưởng; hay hữu lậu chưa sanh... (như
trên)... hay vô minh lậu chưa sanh được khởi, hay vô minh lậu đã sanh được tăng
trưởng. Đó là những pháp không nên tác ý và vị ấy không tác ý. Và này các
Tỷ-kheo, thế nào là các pháp cần phải tác ý và vị ấy tác ý? Này các Tỷ-kheo,
những pháp nào do tác ý mà dục lậu chưa sanh không sanh khởi, hay dục lậu đã
sanh được trừ diệt, hay hữu lậu chưa sanh... (như trên)... hay vô minh lậu chưa
sanh không sanh khởi, hay vô minh lậu đã sanh được trừ diệt, đó là những pháp
cần phải tác ý và vị ấy tác ý. Nhờ vị ấy không tác ý các pháp không cần phải
tác ý, tác ý các pháp cần phải tác ý nên các lậu hoặc chưa sanh không sanh khởi
và các lậu hoặc đã sanh được trừ diệt.
Vị ấy như lý tác ý: "Đây là khổ", như lý tác ý: "Đây là
khổ tập", như lý tác ý: "Đây là khổ diệt", như lý tác ý:
"Đây là con đường đưa đến khổ diệt". Nhờ vị ấy tác ý như vậy, ba kiết
sử được trừ diệt: thân kiến, nghi, giới cấm thủ. Này các Tỷ-kheo, các pháp ấy
được gọi là các lậu hoặc phải do tri kiến được đoạn trừ.
(Các lậu hoặc phải do phòng hộ được đoạn trừ)
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc phải do phòng hộ được đoạn
trừ? Ở đây, có Tỷ-kheo như lý giác sát, sống phòng hộ với sự phòng hộ con mắt.
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ấy sống không phòng hộ với sự phòng hộ con mắt,
các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não có thể khởi lên. Nếu sống phòng hộ với sự
phòng hộ con mắt, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy không còn nữa. Vị ấy như
lý giác sát, sống phòng hộ với sự phòng hộ lỗ tai... (như trên)... sống phòng
hộ với sự phòng hộ lỗi mũi... (như trên)... sống phòng hộ với sự phòng hộ
lưỡi... (như trên)... sống như lý giác sát phòng hộ với sự phòng hộ thân căn...
(như trên)... sống như lý giác sát phòng hộ với sự phòng hộ ý căn. Này các
Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ấy sống không phòng hộ với sự phòng hộ ý căn, các lậu hoặc
tàn hại và nhiệt não ấy có thể khởi lên. Nếu sống phòng hộ ý căn, các lậu hoặc
tàn hại và nhiệt não ấy không còn nữa. Này các Tỷ-kheo, các pháp ấy được gọi là
các lậu hoặc phải do phòng hộ được đoạn trừ.
(Các lậu hoặc phải do thọ dụng được đoạn trừ)
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc phải do thọ dụng được đoạn
trừ? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo như lý giác sát, thọ dụng y phục, chỉ để
ngăn ngừa lạnh, ngăn ngừa nóng, ngăn ngừa sự xúc phạm của ruồi, muỗi, gió, sức
nóng mặt trời, các loài bò sát, chỉ với mục đích che đậy sự trần truồng.
Vị ấy như lý giác sát, thọ dụng món ăn khất thực không phải để vui đùa,
không phải để đam mê, không phải để trang sức, không phải để tự làm đẹp mình,
mà chỉ để thân này được sống lâu và được bảo dưỡng, để (thân này) khỏi bị
thương hại, để hổ trợ phạm hạnh, nghĩ rằng: "Như vậy, ta diệt trừ các cảm
thọ cũ và không cho khởi lên các cảm thọ mới, và ta sẽ không có lỗi lầm, sống
được an ổn".
Vị ấy như lý giác sát, thọ dụng sàng tọa, chỉ để ngăn ngừa lạnh, ngăn
ngừa nóng, ngăn ngừa sự xúc phạm của ruồi, muỗi, gió, sức nóng mặt trời, các
loại bò sát, chỉ để giải trừ nguy hiểm của thời tiết, chỉ với mục đích sống độc
cư an tịnh.
Vị ấy như lý giác sát thọ dụng dược phẩm trị bệnh, chỉ để ngăn chận các
cảm giác khổ thống đã sanh, để được ly khổ hoàn toàn.
Này các Tỷ-kheo, nếu vị ấy không thọ dụng như vậy, các lậu hoặc tàn hại
và nhiệt não có thể khởi lên. Nếu vị ấy thọ dụng như vậy, các lậu hoặc tàn hại
và nhiệt não ấy không còn nữa. Này các Tỷ-kheo, các pháp ấy được gọi là các lậu
hoặc phải do thọ dụng được đoạn trừ.
(Các lậu hoặc phải do kham nhẫn được đoạn trừ)
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc phải do kham nhẫn được đoạn
trừ? Này các Tỷ-kheo, ở đây, có Tỷ-kheo như lý giác sát, kham nhẫn lạnh, nóng,
đói, khát, sự xúc phạm của ruồi, muỗi, gió, sức nóng mặt trời, các loài bò sát;
kham nhẫn những cách nói mạ l , phỉ báng. Vị ấy có tánh kham nhẫn các cảm thọ
về thân, những cảm thọ thống khổ, khốc liệt, đau nhói, nhức nhối, không sung
sướng, không thích thú, chết điếng người. Này các Tỷ-kheo, nếu vị ấy không kham
nhẫn như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não có thể khởi lên. Nếu vị ấy kham
nhẫn như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy không còn nữa. Này các
Tỷ-kheo, các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do kham nhẫn được đoạn trừ.
(Các lậu hoặc phải do tránh né được đoạn trừ)
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc phải do tránh né được đoạn
trừ? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo như lý giác sát tránh né voi dữ, tránh né
ngựa dữ, tránh né bò dữ, tránh né chó dữ, rắn, khúc cây, gai góc, hố sâu, vực
núi, ao nước nhớp, vũng nước. Có những chỗ ngồi không xứng đáng ngồi, những trú
xứ không nên lai vãng, những bạn bè ác độc mà nếu giao du thì bị các vị đồng
phạm hạnh có trí nghi ngờ, khinh thường; vị ấy như lý giác sát tránh né chỗ
ngồi không xứng đáng ấy, trú xứ không nên lai vãng ấy và các bạn độc ác ấy. Này
các Tỷ-kheo, nếu vị ấy không tránh né như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt
não ấy có thể khởi lên. Nếu vị ấy tránh né như vậy, các lậu hoặc tàn hại và
nhiệt não ấy không còn nữa. Này các Tỷ-kheo, các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc
phải do tránh né được đoạn trừ.
(Các lậu hoặc phải do trừ diệt được đoạn trừ)
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc phải do trừ diệt được đoạn
trừ? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo như lý giác sát không có chấp nhận dục
niệm đã khởi lên, từ bỏ, trừ diệt, diệt tận, không cho tồn tại (dục niệm ấy);
không có chấp nhận sân niệm đã khởi lên, từ bỏ, trừ diệt, diệt tận, không cho
tồn tại (sân niệm ấy); không có chấp nhận hại niệm đã khởi lên, từ bỏ, trừ
diệt, diệt tận, không cho tồn tại (hại niệm ấy); không chấp nhận các ác bất
thiện pháp luôn luôn khởi lên, từ bỏ, trừ diệt, diệt tận, không cho tồn tại
(các ác bất thiện pháp ấy). Này các Tỷ-kheo, nếu vị ấy không trừ diệt như vậy,
các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy có thể khởi lên. Nếu vị ấy trừ diệt như
vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy không còn nữa. Này các Tỷ-kheo, các
pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do trừ diệt được đoạn diệt.
(Các lậu hoặc phải do tu tập được đoạn trừ)
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc phải do tu tập được đoạn trừ?
Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo như lý giác sát tu tập niệm giác chi, niệm giác
chi này y viễn ly, y ly tham, y đoạn diệt, hướng đến từ bỏ; như lý giác sát tu
tập trạch pháp giác chi... (như trên)... tu tập tinh tấn giác chi... tu tập hỷ giác
chi... tu tập khinh an giác chi... tu tập định giác chi... tu tập xả giác chi;
xả giác chi này y viễn ly, y ly tham, y đoạn diệt, hướng đến từ bỏ. Này các
Tỷ-kheo, nếu vị ấy không tu tập như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy
có thể khởi lên. Nếu vị ấy tu tập như vậy, các lậu hoặc tàn hại và nhiệt não ấy
không còn nữa. Này các Tỷ-kheo, các pháp ấy được gọi là các lậu hoặc phải do tu
tập được đoạn trừ.
(Kết luận)
Này các Tỷ-kheo, đối với Tỷ-kheo những lậu hoặc nào phải do tri kiến được
đoạn trừ đã được tri kiến đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do phòng hộ được
đoạn trừ đã được phòng hộ đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do thọ dụng dược
đoạn trừ đã được thọ dụng đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do kham nhẫn được
đoạn trừ đã được kham nhẫn đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do tránh né được
đoạn trừ đã được tránh né đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do trừ diệt được
đoạn trừ đã được trừ diệt đoạn trừ, những lậu hoặc nào phải do tu tập được đoạn
trừ đã được tu tập đoạn trừ; này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là đã sống
phòng hộ với sự phòng hộ tất cả lậu hoặc, đã đoạn diệt khát ái, đã thoát ly
kiết sử, đã chánh quán kiêu mạn, đã diệt tận khổ đau.
Như vậy Thế Tôn thuyết giảng. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của
Thế Tôn.
Hòa
thượng Thích Minh Châu dịch Việt
Majjhima Nikaya 2
Sabbasava Sutta
All the Fermentations
English translation by Bhikkhu Thanissaro
For free distribution only, as a gift of Dhamma
I have heard that on one occasion the Blessed One was staying at
Savatthi, in Jeta's Grove, Anathapindika's monastery. There he addressed the
monks: "Monks!"
"Yes, lord," the monks replied.
The Blessed One said, "Monks, the ending of the fermentations is for
one who knows and sees, I tell you, not for one who does not know and does not
see. For one who knows what and sees what? Appropriate attention and inappropriate
attention. When a monk attends inappropriately, unarisen fermentations arise,
and arisen fermentations increase. When a monk attends appropriately, unarisen
fermentations do not arise, and arisen fermentations are abandoned. There are
fermentations to be abandoned by seeing, those to be abandoned by restraining,
those to be abandoned by using, those to be abandoned by tolerating, those to
be abandoned by avoiding, those to be abandoned by destroying, and those to be
abandoned by developing.
"[1] And what are the fermentations to be abandoned by seeing? There
is the case where an uninstructed, run-of-the-mill person -- who has no regard
for noble ones, is not well-versed or disciplined in their Dhamma; who has no
regard for men of integrity, is not well-versed or disciplined in their Dhamma
-- does not discern what ideas are fit for attention or what ideas are unfit
for attention. This being so, he does not attend to ideas fit for attention and
attends [instead] to ideas unfit for attention.
"And what are the ideas unfit for attention that he attends to?
Whatever ideas such that, when he attends to them, the unarisen fermentation of
sensuality arises in him, and the arisen fermentation of sensuality increases;
the unarisen fermentation of becoming arises in him, and arisen fermentation of
becoming increases; the unarisen fermentation of ignorance arises in him, and
the arisen fermentation of ignorance increases. These are the ideas unfit for
attention that he attends to.
"And what are the ideas fit for attention that he does not attend
to? Whatever ideas such that, when he attends to them, the unarisen
fermentation of sensuality does not arise in him, and the arisen fermentation
of sensuality is abandoned; the unarisen fermentation of becoming does not
arise in him, and arisen fermentation of becoming is abandoned; the unarisen
fermentation of ignorance does not arise in him, and the arisen fermentation of
ignorance is abandoned. These are the ideas fit for attention that he does not
attend to. Through his attending to ideas unfit for attention and through his
not attending to ideas fit for attention, both unarisen fermentations arise in
him, and arisen fermentations increase.
"This is how he attends inappropriately: 'Was I in the past? Was I
not in the past? What was I in the past? How was I in the past? Having been
what, what was I in the past? Shall I be in the future? Shall I not be in the
future? What shall I be in the future? How shall I be in the future? Having
been what, what shall I be in the future?' Or else he is inwardly perplexed
about the immediate present: 'Am I? Am I not? What am I? How am I? Where has
this being come from? Where is it bound?'
"As he attends inappropriately in this way, one of six kinds of view
arises in him: The view I have a self arises in him as true and established, or
the view I have no self ...or the view It is precisely by means of self that I
perceive self ...or the view It is precisely by means of self that I perceive
not-self ...or the view It is precisely by means of not-self that I perceive
self arises in him as true and established, or else he has a view like this:
This very self of mine -- the knower that is sensitive here and there to the
ripening of good and bad actions -- is the self of mine that is constant,
everlasting, eternal, not subject to change, and will endure as long as
eternity. This is called a thicket of views, a wilderness of views, a
contortion of views, a writhing of views, a fetter of views. Bound by a fetter
of views, the uninstructed run-of-the-mill person is not freed from birth,
aging, and death, from sorrow, lamentation, pain, distress, and despair. He is
not freed, I tell you, from suffering and stress.
"The well-instructed noble disciple -- who has regard for noble
ones, is well-versed and disciplined in their Dhamma; who has regard for men of
integrity, is well-versed and disciplined in their Dhamma -- discerns what
ideas are fit for attention and what ideas are unfit for attention. This being
so, he does not attend to ideas unfit for attention and attends [instead] to
ideas fit for attention.
"And what are the ideas unfit for attention that he does not attend
to? Whatever ideas such that, when he attends to them, the unarisen
fermentation of sensuality arises in him, and the arisen fermentation of
sensuality increases; the unarisen fermentation of becoming arises in him, and
arisen fermentation of becoming increases; the unarisen fermentation of
ignorance arises in him, and the arisen fermentation of ignorance increases. These
are the ideas unfit for attention that he does not attends to.
"And what are the ideas fit for attention that he does attend to?
Whatever ideas such that, when he attends to them, the unarisen fermentation of
sensuality does not arise in him, and the arisen fermentation of sensuality is
abandoned; the unarisen fermentation of becoming does not arise in him, and the
arisen fermentation of becoming is abandoned; the unarisen fermentation of
ignorance does not arise in him, and the arisen fermentation of ignorance is
abandoned. These are the ideas fit for attention that he does attend to.
Through his not attending to ideas unfit for attention and through his
attending to ideas fit for attention, unarisen fermentations do not arise in
him, and arisen fermentations are abandoned.
"He attends appropriately, This is stress...This is the origination
of stress...This is the cessation of stress...This is the way leading to the
cessation of stress. As he attends appropriately in this way, three fetters are
abandoned in him: identity-view, doubt, and grasping at precepts and practices.
These are called the fermentations to be abandoned by seeing.
"[2] And what are the fermentations to be abandoned by restraining?
There is the case where a monk, reflecting appropriately, dwells restrained
with the restraint of the eye-faculty. The fermentations, vexation, or fever
that would arise if he were to dwell unrestrained with the restraint of the
eye-faculty do not arise for him when he dwells restrained with the restraint
of the eye-faculty.
Reflecting appropriately, he dwells restrained with the restraint of the
ear-faculty...
Reflecting appropriately, he dwells restrained with the restraint of the
nose-faculty...
Reflecting appropriately, he dwells restrained with the restraint of the
tongue-faculty...
Reflecting appropriately, he dwells restrained with the restraint of the
body-faculty...
Reflecting appropriately, he dwells restrained with the restraint of the
intellect-faculty. The fermentations, vexation, or fever that would arise if he
were to dwell unrestrained with the restraint of the intellect-faculty do not
arise for him when he dwells restrained with the restraint of the
intellect-faculty. These are called the fermentations to be abandoned by restraining.
"[3] And what are the fermentations to be abandoned by using? There
is the case where a monk, reflecting appropriately, uses the robe simply to
counteract cold, to counteract heat, to counteract the touch of flies,
mosquitoes, wind, sun, and reptiles; simply for the purpose of covering the
parts of the body that cause shame.
"Reflecting appropriately, he uses almsfood, not playfully, nor for
intoxication, nor for putting on bulk, nor for beautification; but simply for
the survival and continuance of this body, for ending its afflictions, for the
support of the holy life, thinking, 'Thus will I destroy old feelings [of
hunger] and not create new feelings [from overeating]. I will maintain myself,
be blameless, and live in comfort.'
"Reflecting appropriately, he uses lodging simply to counteract
cold, to counteract heat, to counteract the touch of flies, mosquitoes, wind,
sun, and reptiles; simply for protection from the inclemencies of weather and
for the enjoyment of seclusion.
"Reflecting appropriately, he uses medicinal requisites that are
used for curing the sick simply to counteract any pains of illness that have
arisen and for maximum freedom from disease.
"The fermentations, vexation, or fever that would arise if he were
not to use these things [in this way] do not arise for him when he uses them
[in this way]. These are called the fermentations to be abandoned by using.
"[4] And what are the fermentations to be abandoned by tolerating?
There is the case where a monk, reflecting appropriately, endures. He tolerates
cold, heat, hunger, and thirst; the touch of flies, mosquitoes, wind, sun, and
reptiles; ill-spoken, unwelcome words and bodily feelings that, when they
arise, are painful, racking, sharp, piercing, disagreeable, displeasing, and
menacing to life. The fermentations, vexation, or fever that would arise if he
were not to tolerate these things do not arise for him when he tolerates them.
These are called the fermentations to be abandoned by tolerating.
"[5] And what are the fermentations to be abandoned by avoiding?
There is the case where a monk, reflecting appropriately, avoids a wild
elephant, a wild horse, a wild bull, a wild dog, a snake, a stump, a bramble
patch, a chasm, a cliff, a cesspool, an open sewer. Reflecting appropriately,
he avoids sitting in the sorts of unsuitable seats, wandering to the sorts of
unsuitable habitats, and associating with the sorts of bad friends that would
make his knowledgeable friends in the holy life suspect him of evil conduct. The
fermentations, vexation, or fever that would arise if he were not to avoid
these things do not arise for him when he avoids them. These are called the
fermentations to be abandoned by avoiding.
"[6] And what are the fermentations to be abandoned by destroying?
There is the case where a monk, reflecting appropriately, does not tolerate an
arisen thought of sensuality. He abandons it, destroys it, dispels it, and
wipes it out of existence.
Reflecting appropriately, he does not tolerate an arisen thought of ill
will ...
Reflecting appropriately, he does not tolerate an arisen thought of
cruelty...
Reflecting appropriately, he does not tolerate arisen evil, unskillful
mental qualities. He abandons them, destroys them, dispels them, and wipes them
out of existence. The fermentations, vexation, or fever that would arise if he
were not to destroy these things do not arise for him when he destroys them.
These are called the fermentations to be abandoned by destroying.
"[7] And what are the fermentations to be abandoned by developing?
There is the case where a monk, reflecting appropriately, develops mindfulness
as a factor of awakening dependent on seclusion...dispassion...cessation,
resulting in letting go. He develops analysis of qualities as a factor of
awakening...persistence as a factor of awakening...rapture as a factor of
awakening...serenity as a factor of awakening...concentration as a factor of
awakening...equanimity as a factor of awakening dependent on
seclusion...dispassion...cessation, resulting in letting go. The fermentations,
vexation, or fever that would arise if he were not to develop these qualities
do not arise for him when he develops them. These are called the fermentations
to be abandoned by developing.
"When a monk's fermentations that should be abandoned by seeing have
been abandoned by seeing, his fermentations that should be abandoned by
restraining have been abandoned by restraining, his fermentations that should
be abandoned by using have been abandoned by using, his fermentations that
should be abandoned by tolerating have been abandoned by tolerating, his
fermentations that should be abandoned by avoiding have been abandoned by
avoiding, his fermentations that should be abandoned by destroying have been
abandoned by destroying, his fermentations that should be abandoned by
developing have been abandoned by developing, then he is called a monk who
dwells restrained with the restraint of all the fermentations. He has severed
craving, thrown off the fetters, and -- through the right penetration of
conceit -- has made an end of suffering and stress."
That is what the Blessed One said. Gratified, the monks delighted in the
Blessed One's words.
Revised: 9 November 1998 ,
http://world.std.com/~metta/canon/majjhima/mn2.html